Tuyên ngôn độc lập của một quốc gia cho thấy bản thân quốc gia đó đã tồn tại nhưng bị đô hộ hoặc bị phụ thuộc vào quốc gia khác.
Ngày 2/9 đã trở thành một mốc son hào hùng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa hiểu rỏ về ngày trọng đại này của đất nước. Nhân kỷ niệm 73 năm ngày quốc khánh. Trường Tiểu học Hòa Minh A trích từ bài viết "Nên hiểu thế nào về ngày Quốc khánh?" của giaoduc.net.vn, hi vọng mang đến cho mọi người cái nhìn rỏ ràng hơn về ngày quốc khánh.
Tuyên ngôn độc lập của một quốc gia cho thấy bản thân quốc gia đó đã tồn tại nhưng bị đô hộ hoặc bị phụ thuộc vào quốc gia khác.
Trong nhiều từ điển
tiếng Việt, “Quốc khánh” được giải thích “Là ngày lễ lớn hàng năm, kỷ niệm ngày
thành lập nước”. [1], [2], [3]
Đây là cách giải thích
sai lệch, không đúng quy định nêu trong khoản 4 điều 13 Hiến pháp Nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, theo đó:
“Quốc khánh nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945”.
Quốc khánh là ngày
“Tuyên ngôn độc lập” (2/9/1945), ngày khai sinh ra “Nhà nước dân chủ cộng hòa”,
thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp, không phải ngày thành lập nước.
Xin nêu một vài giải
thích sơ sài nhưng cần thiết cho ý kiến nêu trên:
Nhà nước là tổ chức xã
hội đặc biệt của quyền lực chính trị.
Giai cấp hoặc tầng lớp
thống trị thành lập Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực của mình.
Những thế lực nắm quyền
điều hành kinh tế, chính trị, xã hội thường chiếm quyền điều hành Nhà nước. Một
quốc gia trải qua các thời kỳ lịch sử có thể có những Nhà nước khác nhau.
Quốc gia (người
Việt còn gọi là “Nước” hay “Đất nước”) là một vùng lãnh
thổ có chủ quyền, có chính quyền và công dân (là người
thuộc các dân tộc sinh sống hợp pháp trên lãnh thổ đó);
Công dân mỗi quốc gia
gắn với bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn
giáo, ngôn ngữ, chữ viết,… và có thể bao gồm những người nước
ngoài chấp nhận nền văn hóa, lịch sử, pháp luật,… của quốc gia đó.

|
Lễ kỷ niệm 70 năm Cách mạng
tháng Tám và Quốc khánh 2/9/2015. (Ảnh: VTV News)
|
Tuyên ngôn độc lập của
một quốc gia cho thấy bản thân quốc gia đó đã tồn tại nhưng bị đô hộ hoặc bị
phụ thuộc vào quốc gia khác.
Không phải khi tuyên
ngôn độc lập thì quốc gia đó mới được thành lập.
Trước năm 1945, nước
Việt Nam đã tồn tại nhưng bị Pháp đô hộ, tổ chức bộ máy nhà nước bị phân thành
ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau, Nam Kỳ là thuộc địa, Trung Kỳ là phong
kiến và Bắc Kỳ nửa thuộc địa, nửa phong kiến.
Vì lẽ đó không thể nói
ngày 2/9/1945 là ngày thành lập nước mà chính xác phải là ngày “Tuyên ngôn độc
lập” hay nói ngắn gọn là “Ngày Độc lập”.
“Ngày Độc lập” là ngày
dân tộc Việt Nam phá bỏ xiềng xích thực dân, cũng đồng thời chấm dứt chế độ
quân chủ (phong kiến) xây dựng một Nhà nước mới hướng tới lý tưởng một nhà nước
“của dân, do dân và vì dân”.
Các tài liệu nước ngoài
nói ngày “Quốc khánh” của Việt Nam như sau:
“National Day
(Vietnamese: Ngày Quốc Khánh) is a national holiday in Vietnam observed on
September 2, commemorating the Vietnam Declaration of Independence from France
on September 2, 1945. It is the country’s National Day”.
(Tạm dịch: Ngày Quốc
khánh là ngày lễ quốc gia của Việt Nam, kỷ niệm tuyên ngôn độc lập của Việt Nam
khỏi (ách thống trị của thực dân - NV) Pháp. Đó là ngày “quốc lễ” của đất nước
- Bách khoa toàn thư mở).
Về mặt lịch sử, nước
Việt Nam đã được thành lập từ hàng nghìn năm trước.
Theo truyền thuyết, nước
Việt Nam, dân tộc Việt Nam có bề dày hơn 4.000 năm lịch sử, nhà nước đầu tiên
của người Việt có tên là Xích Quỷ và vị vua Đầu tiên là Kinh Dương Vương.
Nước Xích Quỷ tồn tại
khoảng 350 năm (2879-2524 trước công nguyên) cho đến nay đã được khoảng 4.500
năm.
Hiện nay vẫn còn Lăng và
đền thờ Thủy tổ Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Tại đây lăng mộ Kinh
Dương Vương và đền thờ các vị Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ đã được
xây dựng từ lâu đời và được tu bổ lập bia từ năm Minh Mệnh thứ 21 (1840). [4]
Việc Nhà nước quy định
lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch làm ngày giỗ tổ và chọn đền thờ các Vua Hùng ở Phú
Thọ làm đền thờ tổ có thể là do hoàn cảnh lịch sử (thiếu thông tin) hoặc những
lý do khác, chẳng hạn dựa vào câu ca dao lưu truyền từ lâu đời:
“Dù ai đi ngược về xuôi; Nhớ ngày giỗ tổ mồng 10 tháng ba”.
Hồ Chủ tịch từng nói: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước”.
áng tiếc là do việc
tuyên truyền, quảng bá còn hạn chế nên ít người biết về Kinh Dương Vương và khu
di tích bên bờ sông Đuống thuộc địa phận tỉnh Bắc Ninh, vì thế ít người về thăm
viếng, thắp nén hương trầm tưởng nhớ vị Thủy tổ người Việt.
Dựa vào tư liệu lịch sử
thì cho tới thời Hai Bà Trưng, mảnh đất mà người Việt ngày nay sinh sống đa
phần đều bị người Hán đô hộ, nước Việt Nam ngày nay trong lịch sử từng là Cửu
Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam và phần đất phía nam tỉnh Bình Định.
Người đầu tiên có công
lập quốc theo sử Bắc (Tự trị thông giám) hay theo sử Nam (Việt đế, Nam đế) là
Hoàng đế Lý Bí.
Cố Giáo sư Trần Quốc
Vượng, trong một bài đăng trên báo Nhandan.com.vn đã viết:
“Lý Bí là người Việt Nam
đầu tiên tự xưng hoàng đế, Việt đế theo sử Bắc (Tự trị thông
giám) hay Nam đế theo sử Nam.
Và bãi bỏ chính sóc
(lịch) của Trung Quốc, ông cũng đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu
riêng, Đại Đức theo sử Bắc hay Thiên Đức theo sử Nam (Thiên
Đức phải hơn, vì khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý
Nam Đế). [5]
Vậy phải chăng ngày
thành lập nước Việt phải là ngày Hoàng đế Lý Bí (triều Tiền Lý) xưng đế và
thành lập nước Vạn Xuân (tháng 2 năm 544 sau công nguyên)?
Sử Việt và sử nước ngoài
ghi nhận năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
Năm 968 Ngài lên ngôi
Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư - Ninh Bình, đời sau
gọi Ngài là Đinh Tiên Hoàng.
Năm 970, Vua Đinh Tiên
Hoàng bỏ niên hiệu của nhà Tống, đặt niên hiệu mới là “Thái Bình”.
Với việc xưng đế, đặt
tên nước, xây dựng kinh đô, định niên hiệu, Vua Đinh Tiên Hoàng đã khẳng định
việc thành lập nhà nước Quân chủ Trung ương tập quyền đầu tiên sau nhiều thế kỷ
bị bọn phong kiến phương Bắc đô hộ.
Chỉ có một chút chưa rõ
mà đời sau vẫn cố công tìm kiếm, ấy là có hay không việc Vua Đinh Tiên Hoàng
ban chiếu bố cáo thiên hạ về việc hoạch định cương thổ nước Đại Cồ Việt, quốc
gia chưa từng tồn tại trong lịch sử?
Sở dĩ nói Đại Cồ Việt
chưa từng tồn tại trong lịch sử vì khác với Vạn Xuân, nước Đại Cồ Việt chủ yếu
bao gồm vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ ngày nay (từ Nghệ An trở ra) trong khi nước
Vạn Xuân mở rộng lên phía Bắc, bao gồm một phần Hợp Phố (gần bán đảo Lôi Châu,
thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).
Nói một chút về lịch sử
để thấy, việc biên soạn từ điển mà thiếu kiến thức lịch sử sẽ tai hại thế nào.
Bên cạnh đó, những khiếm
khuyết trong việc dạy và học môn Lịch sử trong chương trình phổ thông có phải
cũng chính là nguyên nhân khiến người Việt ngày nay hiểu biết khá hạn chế về
lịch sử đất nước và dân tộc mình?
Báo Infonet.vn viết: “Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản “Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố
trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa”. [6]
Infonet.vn đã chính xác
khi viết về sự ra đời của “Nhà nước mới” chứ không phải “Nước hay Quốc gia
mới”.
Chính vì thế nói ngày
2/9/1945 là ngày thành lập “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” là chưa chính xác.
Dù chính kiến có khác
nhau, dù là người Việt hay các dân tộc khác, có một sự thật không thể phủ nhận
là Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9/1945 đã đánh dấu kỷ nguyên mới trong
lịch sử đất nước và dân tộc Việt.
Lần đầu tiên người Việt
- với tư cách công dân một quốc gia có chủ quyền - tiếp xúc với khái niệm “Nhà
nước Việt Nam - Dân chủ - Cộng hòa”, điều dưới chế độ thực dân - phong kiến
không thể nào có được.
Hơn 70 năm qua, đất nước
và dân tộc đã bước qua bao thăng trầm, đã có lúc bạn trở thành thù và cũng có
lúc thù biến thành bạn.
Vượt lên tất cả thách
thức cả trong lẫn ngoài, nước Việt đã trở thành một quốc gia với ngót trăm
triệu dân, với nền kinh tế năng động và mức thu nhập được xếp hạng trung bình
trên thế giới.
Vậy thì chẳng lẽ người
Việt không bao giờ thua?
Với trái tim nóng và
khối óc tỉnh táo, với sự tôn trọng dành cho những người đã góp công hình thành
nước Việt ngày nay, chúng ta phải thừa nhận, người Việt đang thua chính mình.
Thoát khỏi chiến tranh
ít nhất cũng gần ba chục năm, tham gia vào nền kinh tế thị trường đương nhiên
phải biết “Thương trường là chiến trường”.
Vậy vì sao nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta lại sản sinh ra nhiều tập
đoàn, tổng công ty nhà nước làm ăn thua lỗ triền miên như vậy?
Vì sao không ít doanh
nghiệp nước ngoài dễ dàng trốn thuế tại Việt Nam như vậy?
Vì sao cho đến nay, một
nhà nước được xác định là “Của dân, do dân và vì dân” lại sản sinh ra đội ngũ
cán bộ, công chức mà trong đó có cả “một bầy sâu”?
Ngôn từ chính thức cho
“bầy sâu” là “bộ phận không nhỏ”, chúng đang hàng ngày đục khoét ngân sách, làm
băng hoại đạo đức xã hội.
Sai lầm về chiến lược
kinh tế chỉ là một phần, sai lầm về đầu tư cho con người mới là sai lầm nguy
hại nhất cho sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Người Việt, không chỉ
người bình thường, ngay cả giới được xem là tinh hoa cũng kém sáng tạo hơn đồng
nghiệp ở khu vực (chưa kể châu lục hoặc thế giới);
Lãnh đạo cấp tỉnh, cấp
bộ luôn phải xin ý kiến, chờ chỉ thị; Vận động viên Việt Nam thi đấu ở nước
ngoài luôn thua kém bạn bè về tầm vóc và thể lực;…
Đó mới chỉ là vài nét
chấm phá về người Việt hiện tại.
Nhận thức được điều đó,
Hội nghị Trung ương 7 khóa 12 đã nêu định hướng về công tác cán bộ:
“Đến năm 2030: Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ.
Cụ
thể là: Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư
tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả
năng làm việc trong môi trường quốc tế…”.
Cán bộ phải chọn trong
cộng đồng hơn 90 triệu công dân, nếu dân tộc còi cọc về thể lực, giảm sút về
trí tuệ thì làm sao để có cán bộ đúng tầm.
Hy vọng trong tương lai
sẽ có một nghị quyết về định hướng xây dựng “Con người Việt Nam” với tầm nhìn
xuyên suốt thế kỷ 21.
Với Nghị quyết 7, phải
đến năm 2030 nghĩa là phải 12 năm nữa chúng ta mới có được 40-50% cán bộ “đủ
khả năng làm việc trong môi trường quốc tế”.
Vậy trong khi chờ đợi,
các cơ quan chức năng cần phải làm gì khi chúng ta đang ngày càng hội nhập quốc
tế sâu rộng?
Liệu chúng ta sẽ vừa
làm, vừa rút kinh nghiệm hay chờ chuẩn bị xong đội ngũ cán bộ “đủ khả năng làm
việc trong môi trường quốc tế”?
Những danh nhân đất Việt
thời hiện đại, từ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học đến Hồ Chí
Minh, Võ Nguyên Giáp,… đều là những tấm gương yêu nước, thương nòi.
Thành công của Cách mạng
tháng Tám là sự nối tiếp truyền thống cha ông để lại, là sự hy sinh xương máu
của hàng triệu con dân nước Việt, không phải công lao của riêng cá nhân nào.
Được dân tin, dân ủng hộ
sẽ thành công, mất niềm tin nơi dân sẽ thất bại, điều này ai cũng biết, sách
báo đã nhắc đến quá nhiều, vấn đề còn lại là làm gì để nhân dân ủng hộ chủ
trương, đường lối và nhất là để dân tin cán bộ.
Kỷ niệm ngày Tuyên ngôn
độc lập bằng những buổi mít tinh, những đêm văn nghệ vốn là điều đã diễn ra từ
nhiều thập kỷ.
Liệu có nên thay đổi từ
những việc nhỏ nhất như bớt hoa trên lễ đài, bớt những sân khấu hoành tráng mà
thay bằng những việc làm cụ thể?
Đến bao giờ ngày khai
trường vào dịp Quốc khánh, trẻ em và cha mẹ không còn nỗi lo những lớp học đông
tới 60-70 học sinh.
Niềm hân hoan của người
dân trong ngày Độc lập không phản chiếu từ màu sắc của pháo hoa mà từ dòng máu
Lạc Hồng chảy trong huyết quản.
Tài
liệu tham khảo:
[1]http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Qu%E1%BB%91c_kh%C3%A1nh
[2]http://tratu.coviet.vn/hoc-tieng-anh/tu-dien/lac-viet/all/qu%E1%BB%91c+kh%C3%A1nh.html
[3]http://www.xn--t-in-1ua7276b5ha.com/qu%E1%BB%91c%20kh%C3%A1nh
[4]
http://vufo.org.vn/Lang-va-den-tho-Thuy-to-Kinh-Duong-Vuong-35-2797.html?lang=vn
[5]
http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dong-chay/chan-dung/item/7960602-.html
[6]https://infonet.vn/ngay-quoc-khanh-29gia-tri-lich-su-y-nghia-thoi-dai-cua-ban-tuyen-ngon-doc-lap-post208010.info
Xuân Dương - http://giaoduc.net.vn